Đặt trong tương quan với các thực hành trước đó, Tâm Đỗ lần này đã không lựa chọn nghệ thuật trình diễn (performance art), loại hình vốn quen thuộc và là thế mạnh của họ với các tác phẩm đáng chú ý: “Bóng” (2024), “Nhà Gạch Bay” (2024) hay “58s” (2024). Nếu như các trình diễn của Tâm Đỗ cho ta thấy tính nguyên bản của chất liệu thì “Bảo tàng Tan chảy” lại cho ta thấy cách họ làm việc với các chất liệu có sẵn như: found footage (tạm dịch: cảnh quay tìm được), hay văn bản lưu trữ. Song, những chủ đề quen thuộc như ký ức, sự chuyển dịch và phức tạp của căn tính (đặc biệt là queer và người nữ) vẫn được Tâm Đỗ tiếp tục khai thác trong các thực hành lần này của mình.
Tâm Đỗ, “Nhà Gạch Bay” (Flying Brick House) (2024), 20 phút, bóng, hoa cúc trắng và nhạc pop lặp lại. Ảnh: A. Farm International Art Residency.
Say mê thể nghiệm với nhiều phương tiện đương đại, ý tưởng “Bảo tàng Tan chảy” lần này của Tâm Đỗ mang tính đa ngành, trải dài trên ba loại hình khác nhau: điêu khắc mềm, video art và thực hành viết. Mỗi tác phẩm là một nỗ lực can thiệp và thách thức cách nhìn thống trị về hình ảnh – vai trò của người nữ trong giai đoạn kháng chiến. Tâm Đỗ không làm việc với các diễn ngôn này bằng cách đưa ra một diễn ngôn đối nghịch, mà phân rã hoặc ghi đè lên các diễn ngôn có sẵn, được sản xuất và phổ biến thông qua tư liệu lưu trữ, tác phẩm nghệ thuật (âm nhạc & điện ảnh), và biểu tượng văn hóa.
Tâm Đỗ, “Thất Bản” (Lost Stories) (2025), 41.5 x 153 cm, bút bi viết trên giấy lịch. Ảnh: A. Farm International Art Residency.
Trong tác phẩm video art “Chương trình Thám tử Thời gian. Tập 1: Thần chết không có cửa”, Tâm Đỗ đóng vai một thám tử điều tra về ba cái chết của ba nhân vật nữ được họ cho là “oan uổng” trong các tác phẩm điện ảnh thời chiến “Con chim vành khuyên” (1962), “Chân trời tím” (1971) và “Đất khổ” (1973). Bằng cách tách các cảnh quay (footage) ra khỏi tác phẩm gốc, Tâm Đỗ sử dụng quyền năng toàn tri của người kể chuyện (nhân vật “Thám tử”) để viết lại một tự sự khác nhấn mạnh và ngăn cản cái chết được định sẵn cho những nhân vật nữ. Dù đến từ sự ghen tuông cực đoan trong cuộc tình với Lâm hay sự hy sinh “chính trị” do một viên đạn lạc, quyền định đoạt sống-chết, số phận của các nhân vật nữ vẫn luôn trượt khỏi tay họ.
Tâm Đỗ, “Chương trình Thám tử Thời gian. Tập 1: Thần chết không có cửa” (Time Detective Show. Episode 1: Girls Against Death) (2025), 13:39 phút, video đơn kênh. Ảnh: Hoàng Hải.
Lịch sử và diễn ngôn, trong tác phẩm này, được vật lý hóa để trở thành không gian hoặc vật thể có khả năng cầm, nắm hoặc đi xuyên qua. Phân cảnh cuối, nơi nhân vật Thám tử xếp lại bức phông xanh đang chiếu các thước phim khác nhau, nhắc ta rằng lịch sử-nghệ thuật luôn mang tính diễn ngôn (discursive) và giả lập; rằng trong bối cảnh nhất định, chúng được cấu trúc để hướng đến một mục đích chứ không nhằm phục vụ sự thật, do đó có thể ẩn chứa nhiều quyền lực và bất công.
Nếu “Chương trình Thám tử Thời gian” tập trung vào quá trình giải và tái cấu trúc diễn ngôn thì hai tác phẩm “Tam Sao” và “Thất Bản” lại nghiêng về phía thiết lập những tự sự khác, giải phóng cái nhìn chính trị về vai trò của người nữ trong lịch sử. Cảm hứng bắt nguồn từ một lần ghé thăm Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ, Tâm Đỗ bắt gặp tủ trưng bày vài vật dụng sinh hoạt và các trang hồi ký về cuộc đời Mẹ Việt Nam Anh Hùng – Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân Trần Thị Mẫn, hay còn được biết đến với một danh tính khác – Thiếu tá Trần Quang Mẫn. Vì các giới hạn chính trị-xã hội, cuộc đời nữ nhân vật Trần Thị Mẫn hiện lên trong không gian lưu trữ bị / được quy giản hóa chỉ tập trung vào danh tính kháng chiến, cách mạng của bà. Thực hành của Tâm Đỗ xem xét các lát cắt khác của danh tính, tưởng tượng và đào sâu vào những phần đời bị bỏ quên để mang đến cách nhìn đa chiều về hình tượng người nữ nói chung và cuộc đời bà Trần Thị Mẫn nói riêng.
Tâm Đỗ, “Tam Sao” (2025), bản số 1, 15 x 32 x 11 cm, màu acrylic, giấy bồi, đèn LED và gương nhựa. Ảnh: A. Farm International Art Residency.
Từ những trang hồi ký ít hỏi của bà Trần Thị Mẫn, Tâm Đỗ và ba người bạn lần theo các chỉ dấu danh tính – âm nhạc, giả nam, kháng chiến, v.v. – để viết nên bảy trang hồi ký giả tưởng về cuộc đời Trần Thị Mẫn. Thao tác này tạo ra “ký ức” từ tưởng tượng chung của tập thể, thể hiện mong ước và góc nhìn của một nhóm người thay vì chỉ của riêng nghệ sỹ. Các câu chuyện vẫn xảy ra trong bối cảnh chiến tranh nhưng không còn mang nhiệm vụ cách mạng: nỗi khó khăn và cảm giác mơ hồ khi di chuyển giữa hai danh tính Trần Thị Mẫn (nữ) và Trần Quang Mẫn (nam); sự đồng điệu tâm hồn giữa hai kẻ thuộc hai chiến tuyến mà tư cách bộ đội không cho phép nảy nở.
Và âm nhạc cũng dự một phần quan trọng trong các tự sự của Tâm Đỗ. Chúng xuất hiện như một thứ nghệ thuật cho phép giải phóng cảm xúc riêng tư, nỗi đau chia cắt và mất mát trong cuộc chiến chứ không bó hẹp trong vòng cương tỏa tuyên truyền và khích lệ. Từ đó, tác phẩm điêu khắc “Tam Sao” ra đời. Đó là ba chiếc mặt nạ phát nhạc, tượng trưng cho phần đời bị bom đạn cướp mất mà ở đó Trần Thị Mẫn trở thành chủ một trà quán bolero hay thành viên của nhóm nhạc nữ ba người.
Việc lưu trữ và tái trình hiện có chọn lọc những tư liệu có làm thay đổi ký ức tập thể của chúng ta? Nếu có, sự thay đổi ấy là gì và do ai quyết định? “Tam Sao” và “Thất Bản” đặt ra cho người xem câu hỏi về mối quan hệ và ranh giới giữa ký ức và lịch sử, chất vấn tính chính danh của một diễn ngôn đơn chiều bằng cách sáng tạo các tự sự khác tồn tại song song với nó.
“Khăn thương nhớ ai”, tác phẩm còn lại trong chuỗi “Bảo tàng Tan chảy”, là một tấm vải trắng lớn có thêu họa tiết giống hình dạng chiếc khăn mùi xoa – biểu tượng văn hóa-nghệ thuật phổ biến thời kỳ kháng chiến. Đa số tác phẩm nghệ thuật (văn học, điện ảnh, vv.) thời kỳ này đều xây dựng khăn tay như đại diện của tình yêu vĩnh cửu, niềm tin và lòng đợi chờ từ người con gái hậu phương gửi đến cho chàng trai ngoài mặt trận. Điều này cũng đồng nghĩa với việc nó đại diện cho sự kết nối và phụ thuộc lẫn nhau giữa hai giới, luôn luôn đặt họ vào mối quan hệ phân cực nhị nguyên nam-nữ, hậu phương-tiền tuyến. Dường như Tâm Đỗ không nhìn nhận điều này như một cách tiếp cận mang tư tưởng nam tính bá quyền, đè nặng áp lực lên nữ giới mà hiểu nó như một khung văn hóa đã sáo mòn, cũ kỹ.
Do đó, để thiết lập cho chiếc khăn tay một lớp nghĩa mới, Tâm Đỗ sử dụng loạt biểu tượng như những người phụ nữ với nhiều độ tuổi và trang phục khác nhau đứng thành hình ngôi sao sáu cánh, xung quanh là âm nhạc với đàn chim trắng bay trên đầu. Loạt biểu tượng này đại diện cho hòa bình, thống nhất và tình yêu của người nữ dành cho chính mình, giải thoát họ khỏi vai trò giới và kháng chiến mang tên: “hậu phương vững chắc thì tiền tuyến mới vững vàng”.
Tâm Đỗ, “Khăn thương nhớ ai” (2025), 200 x 145 cm, chỉ thêu trên vải cotton. Ảnh: A. Farm International Art Residency.
Nhìn nhận người nữ trong lịch sử với toàn bộ giới hạn và mâu thuẫn của nó, Tâm Đỗ không vội hô hào và tuyên truyền, chỉ từ tốn giải phóng các bó buộc bằng cách viết lại, viết tiếp, hoặc viết trên những áp lực này. Và giải phóng nghĩa là trao trả lại quyền sở hữu và kiến tạo tự sự cho người nữ, để họ được quyền nhìn, viết và kể lại số phận chính mình.
Thực hiện: Hoàng Hải