Phổ-Thứ-Lựu-Đàm từ điểm nhìn “biến thể hoạ”

Bộ tứ danh họa Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Lê Thị Lựu và Vũ Cao Đàm là bốn sinh viên của trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, đã góp phần quan trọng trong việc định hình phong cách hội họa Việt Nam trong thế kỷ XX. Qua góc nhìn của một sinh viên Việt Nam đang theo học ngành Trung Quốc Hoạ tại Học viện Mỹ thuật Trung Quốc, bài viết này sẽ đưa ra những đánh giá về các tác phẩm của 4 danh hoạ qua khái niệm “biến thể hoạ”- là cách thực hành phổ biến trong quá trình sáng tạo nghệ thuật tại các trường mỹ thuật tại Trung Quốc. Liệu các tác phẩm của bộ tứ danh hoạ Đông Dương này có vận dụng khái niệm “biến thể hoạ” trong quá trình sáng tác hay không? Nếu có, họ đã tiếp cận vấn đề như thế nào để tạo nên phong cách đặc trưng của riêng mình? Đây là những câu hỏi cần được thảo luận trong bài viết khi tìm hiểu về hội họa Đông Dương và những dấu ấn của những bậc thầy.

Khái niệm biến thể hoạ trong lịch sử mỹ thuật Trung Quốc thế kỷ XX

    Biến thể họa không chỉ bao gồm việc học theo các tác phẩm kinh điển hoặc những tác phẩm thành công của những hoạ sỹ thời trước, mà còn là sự khám phá những đổi mới, cải tiến bằng cách vẽ lại nhiều lần một tác phẩm nhưng có sự thêm thắt các điểm nhấn hoặc biến đổi để tạo hiệu ứng thẩm mỹ mới. Cho dù có sự biến đổi trong đường nét, màu sắc nhưng tác phẩm vẫn giữ nguyên tinh thần của đối tượng và mang dấu ấn cá nhân, phong cách riêng của người hoạ sỹ. Trong lịch sử mỹ thuật Trung Quốc, thuật ngữ “Biến thể hoạ” không phải là thuật ngữ tồn tại sớm nhất, nhưng tư duy về sự sáng tạo và đổi mới đã tồn tại từ rất lâu. Biến thể hoạ được sử dụng phổ biến hơn và nổi bật hơn nhờ bậc thầy kiệt xuất của Trung Quốc Hoạ thế kỷ XX – Phan Thiên Thọ 潘天寿 (1897-1971). Ông từng là hiệu trưởng của Học Viện Mỹ thuật Trung Quốc và chính là người đã hệ thống hoá khái niệm biến thể hoạ trong hội hoạ hiện đại. 

    Phan Thiên Thọ đã áp dụng biến thể họa bằng cách thể hiện một chủ đề nhiều lần, thường vì ông có cảm giác sâu sắc với phong cảnh hoặc một nội dung cụ thể nào đó. Ông cũng là người được ảnh hưởng từ những bậc thầy vĩ đại như Thạch Đào 石涛, Bát Đại Sơn Nhân 八大山人… được ông thực hành lâm mô và sáng tác. Ta có thể hiểu ông Phan Thiên Thọ là người luôn học hỏi và đi theo tư duy, phong cách, quan niệm nghệ thuật của các bậc thầy cổ đại. Hơn nữa, trong Trung Quốc Họa truyền thống luôn có mối liên hệ chặt chẽ giữa quy tắc bố cục và nội dung của tác phẩm. Ngay cả khi cùng 1 chủ đề, nhưng ý tưởng khác nhau sẽ dẫn đến sự thay đổi trong bố cục và điểm nhấn trong sáng tác. Ví dụ, trong hai tác phẩm “Tiểu long tưu hạ nhất giác” và “Tiếp thiên liên diệp đồ” tuy cùng một chủ đề, nhưng chúng có sự thay đổi trong điểm nhấn như chi tiết hoa, đá, lá cây, và cách xây dựng bố cục cũng được thay đổi qua nhiều lần thực hành. Mục đích của biến thể họa chính là thử nghiệm trong bút pháp, hình ảnh để các tác phẩm được hoàn thiện hơn, khiến cho người nghệ sỹ đạt đến trình độ thuần thục trong hội họa.

    Phan Thiên Thọ, “Tiểu long tưu hạ nhất giác (小龙湫下一角)”. Nguồn: Baidu

    Phan Thiên Thọ, “Tiếp thiên liên diệp đồ (接天莲叶图)”. Nguồn: Baidu

    Biến thể hoạ trong tranh của bộ tứ danh hoạ Phổ-Thứ-Lựu-Đàm

      Lê Phổ

      Hoạ sỹ Lê Phổ (1907-2001) luôn được biết đến với tên gọi “Danh hoạ Việt Nam trên đất Pháp”. Ông đã để lại nhiều tác phẩm vô cùng quý giá theo trường phái lãng mạn, và chúng đều có sức ảnh hưởng mạnh mẽ trong cộng đồng nghệ thuật Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Trong khoảng thời gian ông sinh sống tại Pháp, các tác phẩm của ông trong đề tài người phụ nữ, bình hoa, cảnh trong vườn… đã áp dụng biến thể họa bằng cách sáng tác nhiều phiên bản khác nhau trên chất liệu sơn dầu. Nếu Phan Thiên Thọ đã thực hành biến thể họa bằng việc vẽ lại nhiều lần trong cùng một đề tài, thì Lê Phổ lại có sự biến hóa trong việc sắp xếp các nhân vật, cụ thể trong hai tác phẩm “Ánh sáng mùa hè” và “Nghỉ ngơi trong vườn”. Dù các tác phẩm của ông có sự ảnh hưởng bởi thẩm mỹ của hội họa phương Tây, nhưng vẫn có thể áp dụng biến thể họa bằng việc thực hành lặp lại hòa sắc xanh – vàng và hậu cảnh lá cây trong hai tác phẩm. Nhưng việc thêm cô gái mặc áo xanh và đứa trẻ ngồi bên phải lại  tạo nên không gian xa gần tốt hơn và điểm nhấn mới cho tác phẩm.

      Lê Phổ, “Ánh sáng mùa hè (La Lumière d’Été)” (1975); Lê Phổ, “Nghỉ ngơi trong vườn (Le repos dans le jardin)”

      Có lẽ, hoạ sỹ Lê Phổ là là người thực hành biến thể hoạ bằng việc lặp lại trong sáng tác rõ ràng nhất trong 4 danh hoạ. Trong loạt tác phẩm vẽ về thiếu nữ của ông, người xem sẽ thấy rõ ông không chỉ thực hành lại nhiều lần dáng tay của cô gái mà còn thực hành tạo hình của khuôn mặt. Bên cạnh đó, ông còn khám phá thêm các yếu tố phụ trong bức tranh, chẳng hạn như các chi tiết rèm cửa, hoa cúc, các đồ vật như chiếc quạt, quyển sách… Các tác phẩm vẽ tĩnh vật của họa sỹ, nhất là chủ đề bình hoa thường phản ánh sự tương đồng về cách thức thể hiện và bố cục, nhưng điểm nhấn của chúng luôn được làm mới bằng cách thay đổi nhiều loại hoa, bình hoa, khăn trải bàn, hay hoà sắc khác nhau. Điều này đã thể hiện được quá trình tiến bộ đến thuần thục trong các tác phẩm và con đường theo đuổi nghệ thuật của họa sỹ.

      Lê Phổ, “Thiếu nữ (Jeune femme)” (1950); Lê Phổ, “Chiếc bát màu xanh (Le bol bleu)” (1942); Lê Phổ, “Thiếu nữ cùng hoa sen và chiếc quạt (Jeune femme au lotus et à l’éventail)” (không rõ năm)

      Lê Phổ, “Hoa (Fleurs)” (1975); Lê Phổ, “Hoa Anh Túc (Les poppies)” (1970)

      Lê Phổ, “Hoa Tulip đỏ và trắng (Les Tulipes Rouges Et Blanches)” (không rõ năm); Lê Phổ, “Mẫu đơn (Les pivoines)” (không rõ năm)

      Mai Trung Thứ

      Mai Trung Thứ (1906–1980)  là người chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi văn hóa phương Đông, đồng thời ông cũng giữ lại những chất liệu bản điạ Việt Nam. Qua nét vẽ của Mai Trung Thứ, ta không chỉ nhìn thấy một thế giới đầy tình cảm ấm áp, hòa bình và tĩnh lặng, mà còn cảm nhận được bản chất tốt đẹp và vẻ đẹp cuộc sống của người dân Việt Nam.

      Mai Trung Thứ, “Mona Lisa” (1958-1961-1974)

      Trong thời gian sống ở Pháp (1906-1980), Mai Trung Thứ đã học tập từ các bậc thầy thời Phục Hưng, đồng thời cũng phát triển phong cách vẽ độc đáo của riêng mình. Ông không chỉ tái hiện lại một cách táo bạo những kiệt tác kinh điển phương Tây, mà còn thể hiện tình yêu quê hương Việt Nam vào trong tác phẩm của mình, tạo ra một ngôn ngữ nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân. 3 bản “Mona Lisa” là ví dụ tiêu biểu cho sự kết hợp giữa yếu tố Đông và Tây trong tác phẩm của ông.

      Mai Trung Thứ đã vẽ lại hình tượng phụ nữ trong phiên bản gốc “Mona Lisa” thành một phụ nữ Việt Nam mặc áo dài truyền thống và đội khăn voan, tạo cho nhân vật một bản sắc văn hóa mới. Hơn nữa, ta cũng thấy được sự thay đổi trong chi tiết hoa văn và màu sắc trang phục của nàng Mona Lisa Việt Nam qua 3 thời điểm khác nhau. Qua việc thực hành biến thể hoạ, Mai Trung Thứ đã thành công khi không chỉ vừa giữ nét văn hoá dân tộc, mà còn vừa học hỏi được thẩm mỹ của hội hoạ cổ điển phương Tây, góp phần giúp hội hoạ Việt Nam được lan toả nhiều hơn trên thị trường thế giới.

      Mai Trung Thứ, “Mẹ và con” (không rõ năm); Mai Trung Thứ, “Sapec vàng (La sapèque d’or)” (1946)

      Mai Trung Thứ còn tạo ra nhiều biến thể họa khác nhau trong các tác phẩm chủ đề mẹ và con, hay chủ đề về thiếu nữ, thiếu nhi. Ví dụ, hai tác phẩm “Mẹ và Con” và “Sapec vàng” dù tư thể người mẹ ôm con được ông thực hành lặp lại, nhưng ông đã thay đổi dáng tay, trang phục, phụ kiện cài tóc… So sánh giữa hai tác phẩm “Người phụ nữ bên cửa sổ”, hay tác phẩm “Mệt mỏi” cùng “Cô gái đọc sách”, ta thấy ông luôn có sự thực hành lặp lại nhiều lần về dáng ngồi, cử chỉ, bối cảnh nhưng các chi tiết ghế ngồi, trang phục đã được ông thay đổi qua những lần thực hành biến thể họa. Những tác phẩm thực hành biến thể họa của ông cũng được thể hiện rõ nét nhất trong khoảng thời gian ông định cư tại Pháp (sau 1936), mặc dù có sự ảnh hưởng bới phong cách nghệ thuật phương Tây nhưng ông vẫn có những tạo hình nhân vật đậm chất Á Đông rất riêng, khác so với thời điểm ông còn học ở trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.

      Mai Trung Thứ, “Từ chức Resignation” (1966); Mai Trung Thứ, “Mẹ và con cùng trái cây (Mère et enfant au fruit)” (1970)

      Mai Trung Thứ, “Mẹ và con trai (Mère et fils 母與子)” (1941); Mai Trung Thứ, “Mẹ và con (Mère et L’Enfant 母與子)” (1942)

      Mai Trung Thứ, “Mệt mỏi (Lassitude 疲勞)” (1947); Mai Trung Thứ, “Cô gái đọc sách” (không rõ năm)

      Trên: Mai Trung Thứ, “Cầu nguyện La prière” (không rõ năm); Dưới: Mai Trung Thứ, “Năm cô gái trẻ” (không rõ năm)

      Mai Trung Thứ, “Người phụ nữ bên cửa sổ (Jeune femme pensive – Woman by the window)” (1952)

      Vũ Cao Đàm

      Qua các tác phẩm của Vũ Cao Đàm (1908–2000), ta thấy cách ông thực hành biến thể họa không chỉ liên tục thể hiện cùng một chủ đề mà còn khéo léo sử dụng các tổ hợp màu sắc khác nhau và biến đổi sắc độ để tạo cho mỗi tác phẩm một bầu không khí cảm xúc và hiệu ứng thị giác riêng biệt. Các tác phẩm của Vũ Cao Đàm luôn đầy ắp sự mới mẻ và biến đổi, đây chính là điểm độc đáo của ông với tư cách một nghệ sĩ xuất sắc.

      Vũ Cao Đàm, “Mẫu tử” (không rõ năm)

      Khi so sánh hai tác phẩm “Mẫu tử” của ông, ta thấy bức tranh bên phải có cải tiến về bố cục phát triển thêm nhân vật, các chi tiết trên mặt cũng có cảm giác hoàn thiện hơn.

      Vũ Cao Đàm, “Thần tính (Divinité)” (1966-1976-1985)

      Mặc dù tư thế nhân vật của bộ tranh “Thần tính”, “Mẹ và con” hay “Người cưỡi ngựa”  được ông thực hành qua nhiều lần nhưng cũng được ông thử nghiệm qua nhiều hoà sắc phong phú.

      Vũ Cao Đàm, “Mẹ và con (Mere et enfant)” (1979); Vũ Cao Đàm, “Maternité” (không rõ năm)

      Vũ Cao Đàm, “Mẹ và con (Mère et enfant)” (1968)

      Vũ Cao Đàm, “Người cưỡi ngựa (Le Cavalier)”

      Lê Thị Lựu

      Từ thời còn đi học, Lê Thị Lựu (1911-1988)  đã thành thạo kỹ thuật vẽ phương Tây, phong cách của bà chịu ảnh hưởng từ Amedeo Modigliani, Pierre-Auguste Renoir và Pierre Bonnard, đặc biệt là trong việc thể hiện vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam một cách rất riêng. Về màu sắc, bà ưa chuộng bảng màu tươi sáng, kết hợp ánh sáng mềm mại với các sắc độ xanh, lục, hồng để tạo ra không khí ấm áp và yên tĩnh, thể hiện đặc trưng tình cảm tinh tế của phụ nữ, được đánh giá là “mềm mại” và “dịu dàng”.

      Khi thưởng thức các tác phẩm của bà, chúng ta có thể cảm nhận rõ ràng rằng các tác phẩm vừa tiếp thu tinh hoa của nghệ thuật phương Tây, lại vẫn giữ được những nét vẽ đầy tình cảm, thể hiện sức hấp dẫn độc đáo và vẻ đẹp nội tâm của phụ nữ châu Á.

      Lê Thị Lựu, “Ba mẹ con goá phụ” (1954); “Amedeo Modigliani,Jeanne Hébuterne” (1919) (nguồn: metmuseum.org)

      Lê Thị Lựu, “Mère et enfant” (1960–1969) có sự ảnh hưởng bởi hình tượng Madonna and Child của Sano di Pietro (nguồn: metmuseum.org)

      Chúng ta có thể thấy bà đã học hỏi tạo hình từ những hoạ sỹ phương tây, nhưng thông qua quá trình sáng tác, bà vẫn giữ được nét đặc trưng của người phụ nữ Á Đông như trang phục, bối cảnh, đặc điểm khuôn mặt của nhân vật trong tranh… Các tác phẩm “Mẹ và con” của bà cũng đã được thực hành lại nhiều lần để đạt đến sự thuần thục nhất định.

      Lê Thị Lựu, “Mẹ và con” (1960); Lê Thị Lựu, “Mẹ và con” (1961), Lê Thị Lựu, “Mère allaitant dans un intérieur” (1962)

      Thực hành biến thể hoạ của bản thân

        Là một học viên cao học năm nhất ngành Trung Quốc Hoạ chuyên ngành Công bút Hoa điểu họa tại Học viện Mỹ thuật Trung Quốc, trong kỳ học đầu tiên tôi đã được thực hành lâm mô biến thể họa, là quá trình sử dụng các chi tiết từ tác phẩm gốc để xây dựng một bức tranh hoàn toàn mới. Việc lựa chọn kết hợp hai tác phẩm công bút thời nhà Tống (960-1297) là “Song tùng hoa điểu đồ (双松花鸟图)” và “Tì bà khổng tước đồ (枇杷孔雀图)” để thực hiện vì giai đoạn này là thời kỳ đỉnh cao phát triển của công bút họa tại Trung Quốc, từ đó người học nắm rõ các kỹ thuật căn bản và có những sáng tạo cá nhân trong việc sắp xếp bố cục. 

        Bản thân tôi vẫn đang trong giai đoạn đầu của quá trình thực hành và nghiên cứu công bút Hoa điểu họa đương đại, tôi cảm thấy việc áp dụng biến thể họa là phương pháp rất hiệu quả giúp người học được khám phá những ý tưởng mới trên cơ sở sao chép, tăng hiệu ứng thị giác và tự do thể hiện những ý tưởng đa dạng. Qua bài viết, chúng ta có thể hiểu bản chất của biến thể họa chính là quá trình sáng tạo và đổi mới không ngừng để người nghệ sỹ đạt đến sự thuần thục trong kỹ thuật cũng như tìm ra cách biểu đạt, tạo hình cho riêng mình.

        Hà My, Thực hành lâm mô biến thể từ hai tác phẩm kinh điển thời nhà Tống (Song tùng hoa điểu đồ & Tì bà khổng tước đồ) (nguồn: 中华珍宝馆)

        Thực hiện: Hà My