Mộc gốm Biên Hòa – Dấu xưa còn mãi 

Nhà sưu tập Nguyễn Ngọc Quý chia sẻ những hiểu biết về cách nhận biết và xác thực các dấu mộc đóng trên sản phẩm gốm của Trường Mỹ thuật Biên Hòa xưa, góp phần nào hữu ích cho việc sưu tầm và nghiên cứu về dòng gốm này.

Gốm Biên Hòa”, tên gọi dân dã, ngắn gọn để gọi tên một dòng gốm được làm bởi ban Gốm của Trường Mỹ thuật Biên Hòa, do người Pháp lập ra tại tỉnh Biên Hòa xưa. Trong khuôn khổ bài viết, tôi xin bỏ qua một đoạn khá dài về lịch sử hình thành và phát triển của ngôi trường  và ban Gốm, chỉ xin nhắc về lời hô hào học viên Việt Nam – “Hãy nhìn vào truyền thống của mình”, của cặp vợ chồng người Pháp, ông bà Robert và Mariette Balick, tổng giám thị và giáo viên của trường từ năm 1923 đến 1950, những người khởi xướng và tìm được lối đi rực rỡ nhất cho gốm Biên Hòa. Họ phát huy tinh thần dựa vào truyền thống, phục hồi, sửa đổi và hoàn thiện để phù hợp với khái niệm mới, trong bối cảnh phương Tây bùng nổ cuộc cách mạng đổi mới nghệ thuật, với làn sóng tân mỹ thuật, mỹ thuật Deco cùng phong trào Nhật hóa, Hoa hóa. Cuộc canh tân này dường như là động lực, thúc đẩy những nhà điều hành trường cho ra mắt nhiều hơn các sản phẩm gốm mỹ thuật, tham gia đấu xảo quốc tế và bán sản phẩm ra nhiều thị trường. Họ vẫn giữ vững tiêu chí như tên trường trước đó: École d’Art Indigène de Bienhoa Trường Mỹ nghệ Bản xứ Biên Hòa, sử dụng tay nghề và nhân công bản xứ Việt Nam, được đào tạo để sáng tác và sản xuất, kinh doanh thu hoa lợi về cho mẫu quốc (trường có tên này vào tháng 9 năm 1913).

Ở góc nhìn của một nhà sưu tập chuyên tâm về các tác phẩm tôn giáo cổ Đông Nam Á, trang sức cổ, trung đại và gốm Biên Hòa, tôi đánh giá cao dòng gốm Biên Hòa. Trải qua quá trình sưu tầm, sở hữu khá nhiều hiện vật của dòng gốm này, tôi nhận ra sở hữu gốm Biên Hòa vừa là công việc lưu giữ, trân trọng các tác phẩm của tiền nhân, thỏa mãn khám phá mỹ thuật, kỹ thuật làm gốm của trường Biên Hòa xưa, vừa là tạo lập một kênh đầu tư có triển vọng. Đa số các tác phẩm gốm Biên Hòa vẫn đang là đồ xưa (dưới 100 năm tuổi) nhưng cũng đã có nhiều tác phẩm hơn 100 tuổi và nhiều tác phẩm dần về sát tuổi cổ vật 100 tuổi. Sưu tập đồ xưa rồi trở thành đồ cổ cũng là một điều tạo nên sự hào hứng. 

Về giá trị thương mại, gốm Biên Hòa vẫn tăng giá đều theo thời gian khi ngày càng có nhiều người tham gia sưu tầm, giao lưu, tuy rằng cũng có lúc trầm lắng như bao dòng đồ sưu tập khác. Ưu điểm lớn nhất khi sưu tầm gốm Biên Hòa chính là tính xác thực cao, dòng gốm này có thể được gọi là an toàn nhất với ai đó yêu thích sưu tập, đang muốn bắt đầu tạo lập một bộ sưu tập đồ xưa, đồ cổ. 

Về giá trị mỹ thuật, gốm Biên Hòa cũng đã khẳng định được tên tuổi trong quá trình phát triển. Tại Pháp, gốm Biên Hòa đã được trân trọng lưu giữ trong những bảo tàng như Bảo tàng Gốm sứ Quốc gia tại Sévres hay Bảo tàng Quai Branly – Jacques Chirac. Ở Việt Nam, gốm Biên Hòa được trưng bày trong nhiều không gian nội thất trang trọng, nhiều công thự, dinh thự xưa như Dinh 3 của vua Bảo Đại tại Đà Lạt, Dinh Độc Lập tại Sài Gòn, v.v.; và được lưu giữ trong Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay, một số hiện vật cũng đã được sắp đặt, trưng bày trong tư gia của các nhà sưu tập, đưa gốm Biên Hòa xưa về đúng bản chất mà những nhà điều hành trường ban đầu đã hướng tới: Trang trí, làm đẹp và sang trọng cho không gian nội thất. 

Các dấu mộc là dấu hiệu dễ nhận biết nhất trên một món gốm Biên Hòa, thường được đóng vào mặt đáy của các sản phẩm, từ ngữ dân gian của người chơi gốm gọi mặt đáy này là “trôn”, tuy nhiên ngoại lệ vẫn có những món gốm không có mộc dưới trôn mà đóng ở vị trí khác (thường thấy ở tượng), hoặc không đóng mộc ở bất cứ vị trí nào, lúc này để nhận biết và xác thực, chúng ta cần vận dụng nhiều kinh nghiệm hơn, đánh giá từ các tố chất khác của hiện vật. 

Phần lớn các món gốm Biên Hòa sẽ có mộc dưới trôn gồm hai chữ “Biên Hòa”, viết theo chữ Hán giản thể: 边和. Nói đến đây, có thể có bạn đọc thắc mắc chữ Hán giản thể được dùng sau năm 1955, vậy gốm Biên Hòa phải chăng tuổi đời chỉ từ năm này trở đi? Thực tế không phải như vậy. Theo một số tài liệu, chữ Hán giản thể đã xuất hiện từ năm 420 Công nguyên. Sau đó vào khoảng năm 1955, với mục tiêu xóa nạn mù chữ và dân trí thấp, chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa tiến hành công cuộc cải cách chữ viết, đã dựa vào các nét chữ đơn giản được lưu truyền trong dân gian để bổ sung, điều chỉnh và cho ra đời bảng chữ Hán giản thể vào năm 1964 và được lưu hành rộng rãi cho đến ngày nay.

Sản phẩm có mộc 边和 viết theo lối chữ biến thể được tìm thấy nhiều nhất, bao gồm chữ Biên (边) ở trên và chữ Hòa (和) ở dưới, mộc này giới sưu tầm cũng như các bạn thương lái dòng đồ Biên Hòa thường hay gọi tên thông dụng là mộc AXE, đọc là a-xe, bởi yếu tố nhận biết dễ nhất là bộ Khẩu (口) trong chữ Hòa (和) theo lối viết của mộc này, có hình dáng giống chữ “A” trong bảng chữ cái khi bị chụp (hoặc nhìn) ngược chiều.

Mộc AXE với Hán tự 边和 viết theo lối biến thể, chữ Biên (边) ở trên và chữ Hòa (和) ở dưới.

Mộc AXE khi nhìn ngược, với bộ Khẩu (口) trong chữ Hòa (和) nhìn giống chữ “A”.

Ngoài ra, các nét khác của chữ Hán trong mộc 边和 cũng có tạo hình gần giống các chữ “X” và chữ “E”, dẫn đến giới sưu tầm dùng tên gọi mộc “AXE” để nói về món đồ gốm Biên Hòa có đóng mộc này, giai đoạn sản xuất được ước tính khoảng thập niên 1940–1960. Mộc AXE ngoài ra còn có vài biến thể gần giống như ví dụ trên, tuy nhiên vẫn được nhận biết rất dễ dàng bởi bộ Khẩu (口) tương tự chữ “A” của nó.

Sản phẩm gốm Biên Hòa có mộc 边和 với tên gọi thông dụng: mộc AXE.

Qua các ví dụ ở trên, chúng ta có thể thấy được phần nào những biến thể của mộc Biên Hòa – AXE. Ngoài ra, một đặc điểm chung của các món đồ đóng mộc AXE nếu có trôn hình tròn như bình, đĩa, hũ, v.v. thì vị trí của mộc thường nằm ở ngay tâm của vòng tròn trôn, phần lòng giữa trôn tròn thường được quét một lớp men, viền mép cốt đất để mộc, được cắt gọt cẩn thận, cạnh góc của viền mép rõ ràng, cốt đất đặc trưng phần lớn có điểm nhận biết là các chấm đen, nâu gỉ sắt, tạp chất và các vệt đỏ gạch do nhiệt nung, trong trôn một số món vẫn có các ký hiệu như ký tự viết tắt của tên nghệ nhân làm gốm, ngày tháng, tên họ, có thể có chữ ký của hai người, khả năng là của môt người làm cốt và một người làm men cho món đồ.

Trên đây là một số phân tích về mộc AXE phổ biến nhất. Ngoài ra, trong suốt quá trình sản xuất và kinh doanh gốm của Trường Mỹ thuật Biên Hòa, trường còn có một số kiểu mộc khác, có những kiểu mộc sớm hơn mộc AXE và cũng có loại muộn hơn. Khái niệm chính xác về năm sản xuất tương ứng với từng loại mộc thì không có tài liệu cụ thể, tuy nhiên dựa vào kinh nghiệm sưu tầm, kết hợp những món đồ được công bố trong giới sưu tập, qua màu men, cốt đất, mọi người cũng đã trao đổi và đúc kết lại về một số mộc tương ứng, gần với những giai đoạn năm sản xuất. Ví dụ ở hình 1, chiếc chậu hoa miệng nhún, trang trí hoa lá đắp nổi, cuốn thư và có dòng chữ tiếng Pháp ghi tên trường – ÉCOLE D’ART INDIGÈNE DE BIENHOA, của nhà sưu tập Nguyễn Nữ Thiên Hương, gắn liền với năm đổi tên trường (1913), theo quyết định ngày 11 tháng 9 năm 1913 của Chánh tham biện Krautheimer và được Thống đốc Nam Kỳ duyệt vào ngày 22 tháng 9 năm 1913 (theo sách “Gốm Biên Hòa”, nhà xuất bản tổng hợp Đồng Nai, tác giả Phan Đình Dũng, Nguyễn Văn Thông, Nguyễn Yên Tri). Món đồ này không được đóng dấu mộc, nó là một ví dụ rõ ràng nhất về gốm Biên Hòa giai đoạn đầu chưa được đóng mộc thương hiệu và vẫn có nét mỹ thuật ảnh hưởng của dòng gốm cổ Cây Mai-Sài Gòn của người Hoa.

Một số trôn bình giai đoạn đầu của gốm Biên Hòa không có mộc, hoặc chỉ có ký tự viết tắt tên tác giả, nghệ nhân tạo tác.


Gốm Biên Hòa không có mộc.

Một số mộc giai đoạn kế tiếp, khoảng thập niên 1920–1940: 
Mộc hai chữ Hán 边和 trong khung hình bầu dục có đường viền nổi, các bạn vẫn có thể dễ dàng nhìn thấy bộ Khẩu (口) trong chữ Hòa (和), hình dáng vẫn giống chữ “A” quay ngược, chữ của mộc này được viết theo lối chữ triện cổ, mộc này có thể được đóng ở giữa hoặc lệch khỏi tâm của trôn tròn, đặc điểm hay thấy ở bình có mộc này là trôn bằng phẳng không viền hoặc viền xung quanh có bản lớn.

Gốm Biên Hòa mộc hai chữ Hán 边和 trong khung hình bầu dục có đường viền nổi.

Mộc hai chữ Hán 边和 trong khung hình bầu dục, có viền nhấn lõm, chữ vẫn là lối viết chữ triện cổ, viền trôn đa phần bản lớn, hãn hữu cũng có món đóng hai mộc vào trôn.

Gốm Biên Hòa mộc hai chữ Hán 边和 trong khung hình bầu dục có viền nhấn lõm.

– Mộc hai chữ Hán 边和 trong khung hình chữ nhật, có đường viền nổi, chữ giản thể viết chân phương, viền trôn đa phần cũng là bản lớn.

Gốm Biên Hòa mộc hai chữ Hán 边和 trong khung hình chữ nhật có đường viền nổi.

– Mộc hai chữ Hán 边和 rời không có khung, viết tay bằng mực hoặc men.

Gốm Biên Hòa mộc hai chữ Hán 边和 rời không có khung, viết tay bằng mực hoặc men.

– Mộc hai chữ Hán 边和 rời không có khung, đóng bằng con dấu.

Gốm Biên Hòa mộc hai chữ Hán 边和 rời không có khung, đóng bằng con dấu.

Mộc bốn chữ Hán 美術边和 (Mỹ thuật Biên Hòa) viết lối chữ triện cổ trong khung hình chữ nhật có đường viền nổi, đóng bằng con dấu, mộc viết chữ Hán nhưng được đọc theo chiều từ trái sang phải, từ trên xuống dưới.

Gốm Biên Hòa mộc bốn chữ Hán 美術边和 viết lối chữ triện cổ trong khung hình chữ nhật có đường viền nổi, đóng bằng con dấu.

– Mộc chữ Latinh tiếng Pháp và tiếng Việt trong khung hình tròn không viền, chữ COOPÉRATIVE-MỸ NGHỆ-BIÊN HÒA-VIỆT NAM, mộc này thường được gọi là mộc tròn song ngữ.

Gốm Biên Hòa mộc tròn song ngữ, chữ Latinh tiếng Pháp và tiếng Việt trong khung hình tròn không viền, chữ COOPÉRATIVE-MỸ NGHỆ-BIÊN HÒA-VIỆT NAM.

– Mộc chữ Latinh tiếng Việt trong khung hình chữ nhật có đường viền nổi hoặc viền chìm, chữ MỶ NGHỆ BIÊN HÒA VIỆT NAM có gộp chung năm làm hiện vật hoặc kèm một mộc rời khung chữ nhật ghi năm làm, ví dụ như MỶ NGHỆ BIÊN HÒA VIỆT NAM BÍNH THÂN trong một khung chữ nhật hoặc MỶ NGHỆ BIÊN HÒA VIỆT NAM ĐINH DẬU trong hai khung chữ nhật riêng biệt. Ở hai ví dụ này, món đồ coi như xác định được niên đại chính xác đó là năm 1956 và 1957.

Gốm Biên Hòa mộc chữ Latinh tiếng Việt trong khung hình chữ nhật. 

Mộc chữ Latinh tiếng Việt trong khung hình tròn có đường viền lõm, chữ *T.T.H.L.S.X.G*BIEN-HOA viết tắt của TRUNG TÂM HUẤN LUYỆN SẢN XUẤT GỐM, ở giữa là chữ VN trong khung hình tròn nhỏ, mộc này ở giai đoạn thập niên 1960. 

Gốm Biên Hòa mộc chữ Latinh tiếng Việt trong khung hình tròn có đường viền lõm.

– Đáng chú ý còn có mộc tên điêu khắc gia Lê Văn Mậu, giảng viên của trường từ năm 1944 và cũng trở thành vị hiệu trưởng thứ sáu của Trường Mỹ thuật Biên Hòa vào năm 1963, mộc tên ông bằng chữ Hán trong khung hình chữ nhật, được đóng sau các tác phẩm mang dấu ấn sáng tác của ông, các tác phẩm này hiện nay đang được số đông người chơi mong muốn sở hữu.

Gốm Biên Hòa mộc tên điêu khắc gia Lê Văn Mậu trong khung hình chữ nhật.

Trên đây là một số ý kiến cá nhân đã được thu thập, tích lũy trong quá trình sưu tập, giao lưu dòng gốm Biên Hòa xưa, cổ của Trường Mỹ thuật Biên Hòa, mong muốn chia sẻ đến bạn đọc chút ít tư liệu, góp phần phong phú thêm góc nhìn về dòng gốm Biên Hòa xưa, cũng như gợi ý đến các bạn, những ai đang có ý định tạo lập một bộ sưu tập gốm Biên Hòa, nhằm thỏa mãn sở thích yêu gốm bản địa Việt Nam của người Việt mình. Mong rằng ngày càng có nhiều nhà sưu tập cùng tham gia lưu giữ những tác phẩm gốm Biên Hòa xưa đầy nghệ thuật và tâm huyết này.

Thực hiện: Nguyễn Ngọc Quý

(Bài viết “Mộc gốm Biên Hoà – Dấu xưa còn mãi” lần đầu được đăng tải trong ấn phẩm Art Republik #7 “Tầm nhìn từ trung điểm”.)