Với “Chuyện núi”, Phạm Huy Thông dường như chọn cách bước chậm lại – không còn là tiếng nói trực diện về những vấn đề xã hội, mà là một sự quan sát lặng lẽ và chiêm nghiệm sâu bên trong. Những ngọn núi hiện lên, vừa gần gũi vừa xa xăm, như mang trong mình những ký ức và suy tư của họa sỹ về con người, văn hóa, cảnh vật và môi trường nơi anh gắn bó. Trong sự lùi lại ấy, người xem nhận ra một bước tiến khác của anh – một Phạm Huy Thông trầm lắng, sắc sảo và thấu đáo hơn, đang đối thoại với thiên nhiên, xã hội và chính mình.

Đúng vậy, “lùi lại” là một động tác phi kỹ thuật trong quá trình sáng tác của tôi. Tôi nghĩ cũng không có gì quá đặc biệt, bởi “lùi lại” là một phản xạ bản năng khi người ta muốn nhìn thấy toàn thể, muốn soi chiếu lại công việc mình đang làm từ một khoảng cách đủ xa. Trong sáng tác hội họa, chỉ khi tôi “lùi lại” thì mới thấy được bức tranh một cách trọn vẹn: bố cục, màu sắc, nhịp điệu, tương quan giữa các mảng miếng… và từ đó có thể tái dàn xếp lại trong tổng thể hài hòa.
Nếu hiểu theo nghĩa rộng hơn, “lùi lại” trên con đường thực hành nghệ thuật lâu dài, đó là lúc người họa sỹ quan sát lại hành trình sáng tác của mình như một cách tự phản tỉnh, để nhìn nhận, đánh giá khách quan, hoặc tìm ra những hướng đi mới. Tiến lên hay lùi lại đều là cách để ta thay đổi góc nhìn; mà khi góc nhìn thay đổi, kiến giải của ta cũng có thể thay đổi.
Với tôi thì việc “lùi lại” là một quá trình đến tự nhiên theo tuổi tác. Đã qua độ tuổi tứ tuần – ngưỡng trung niên, sau hơn hai mươi năm thực hành nghệ thuật, có nghĩa là tôi đã có tương đối thứ để phóng tầm mắt nhìn lại. Tôi có nhiều tác phẩm để so sánh, nhiều bộ tranh gắn liền với từng giai đoạn sáng tác để chiêm nghiệm và kể về. Tôi nghĩ đó cũng là một điều hay mà chỉ có thời gian mới cho tôi câu trả lời. Tuổi tác lúc này không khiến tôi vẽ “khôn” hơn hay vẽ “chậm” đi, nhưng khi đã đủ độ chín, tuổi tác giúp tôi nhìn sự vật, sự việc theo lối khác. Có những ý tưởng mà một Phạm Huy Thông khi trẻ không nhận thấy, nay lại sáng rõ. Do vậy, tôi nghĩ rằng khi ý nhìn thay đổi, ngôn ngữ tạo hình của mình cũng tự nhiên chuyển hóa.
“Chuyện núi”, được sáng tác trong giai đoạn 2024–2025, là kết quả điển hình cho việc chủ động điều chỉnh góc nhìn, đó là sự quan sát từ mình tới chủ đề ở một khoảng cách đủ xa. Nhờ vậy, cách thể hiện thông điệp có phần nhẹ nhàng hơn, nhưng lại bao quát hơn.

Vài năm gần đây tôi thường xuyên đi lại lên các vùng cao, đặc biệt là Sa Pa, Bắc Kạn và Lâm Đồng. Tôi có vài dự án đang triển khai, và những chuyến đi như vậy thường kết hợp với việc trải nghiệm và nghiên cứu văn hóa. Do đó, tôi và núi dường như có sự gắn bó với nhau một cách tự nhiên theo thời gian. Đôi lúc, trên đường công tác, ngẩng đầu lên nhìn mây lảng bảng quanh những đỉnh núi hùng vĩ, vời vợi, tôi thấy mình như đang ở trong một bức tranh thủy mặc.
Có một lần khác, tôi có dịp nghỉ lại trong một khách sạn khoảng lưng chừng núi, có ban công rộng và tầm nhìn rất đẹp. Tôi vẫn nhớ như in buổi chiều hôm ấy, phóng tầm mắt của mình nhìn xuống thung lũng mênh mông, cảm thấy choáng ngợp trước phong cảnh quê hương mình – xanh xanh bạt ngàn núi, xen giữa là những “đốm” người nhỏ bé, li ti nhà cửa… Phía xa bên kia thung lũng là những dãy núi xếp lớp chồng lớp lên nhau, trùng trùng điệp điệp. Tôi chợt nghĩ: suốt hàng vạn năm qua, biết bao thế hệ người đã đi qua, đã ở lại, sinh sống và yêu đương trên những triền núi ấy? Mọi biến thiên của lịch sử loài người như một cuốn phim tua nhanh hiện lên trước mắt. Bỗng nhiên tôi thấy mình chỉ là một chấm nhỏ giữa không gian và thời gian mênh mông đó.
Khoảnh khắc ấy tác động rất mạnh đến cảm xúc của tôi. Đồng thời, như một gợi ý về ý niệm mới để tôi thực hiện bộ “Chuyện núi” – nơi tôi mượn phong cảnh núi làm nền tảng địa tầng thị giác, để diễn giải những suy tưởng của mình về văn hóa, lịch sử và văn minh nhân loại.

Hoa văn, hình vẽ, những biểu tượng của tôn giáo hay tín ngưỡng, v.v. vốn là tinh hoa kết tinh của mỗi nền văn hóa trong lịch sử phát triển văn minh nhân loại. Tôi nghiên cứu, chọn lọc và “tạc” chúng lên những vách đá, sườn núi trong tranh của mình bằng kỹ thuật riêng.
Tôi nhìn thấy sự tương đồng giữa quá trình kiến tạo núi và quá trình hình thành nên các nền văn hóa ấy của con người. Về mặt vật lý, tuy đây là hai khái niệm rất khác nhau, nhưng lại có chung một mô-típ hình thành. Núi không được tạo nên bởi sự bồi đắp, mà bởi sự va chạm dữ dội giữa các mảng lục địa lớn, dồn đẩy thành các đỉnh cao. Văn minh nhân loại cũng thế, mọi đỉnh cao tri thức đều nảy sinh từ sự giao thoa, hoạt động giao thương, thậm chí cọ sát, va chạm giữa các nền văn hóa và tư tưởng khác nhau. Sự va chạm này, dù bằng con đường hòa bình hay chiến tranh, đều thúc đẩy trí tuệ con người không ngừng phát triển để tạo lập nên các thành tựu mới.
Vì thế, “Chuyện núi” không đơn thuần là chủ thể thiên nhiên, mà là một “tầng địa chất văn hóa”. Ở đó, những đỉnh cao văn hóa Đông-Tây cùng đồng hiện và đối thoại.

Tôi đặc biệt thích quan sát và tái hiện sự dịch chuyển của sự vật, hiện tượng, sự biến đổi của các khái niệm hay tập quán xã hội. Những bộ tranh trước đây của tôi được giới thiệu tới công chúng là minh chứng cho thấy sự quan tâm của tôi đối với mảng đề tài này, đồng thời thể hiện rất rõ cách tôi quan sát và tái hiện lại theo cảm quan của mình về những sự chuyển biến có điều kiện đó. Với “Cập nhật”, “Bất động sản” là sự thay đổi của phong tục, tập quán trong quá trình đô thị hóa; ở “Hy Vọng” lại là sự bất an của thân phận con người, hay những va đập của kinh tế thị trường được tôi thể hiện qua “Ghế Nhựa”.
Tới “Chuyện núi”, thực ra vẫn là một lối đi thẳng – tôi không thay đổi chủ đề hay phong cách bình luận về các vấn đề xã hội vốn rất đặc trưng của mình. Nếu có gì đó khác, có lẽ đó chỉ là tầm quan sát của tôi đã mở rộng ra hơn – “zoom out” – lùi xa đến một khoảng cách vừa đủ để có một thông điệp bao quát hơn. Có lẽ vì vậy mà bước “lùi” lần này đã bỏ xa những tiếng ồn ào của đời sống đương đại, nhường chỗ cho suy tưởng và chiêm nghiệm.
Tôi nhớ, ngay trước buổi khai mạc, một người thầy đáng kính của tôi đã ghé thăm phòng triển lãm. Khi vừa bước vào, nhìn các tác phẩm từ xa, thầy không khỏi ngỡ ngàng: “Thông dạo này vẽ khác quá!”. Nhưng sau khi đi một vòng, ngắm kỹ các chi tiết ẩn hiện trong tranh, soi chiếu kỹ hơn sự chuyển động hoa văn các triều đại… như hiểu ra thông điệp chung của “Chuyện núi”, thầy tôi gật gù: “À, Thông vẫn là Thông!”.
Phải, thầy tôi đã đúng. Tôi vẫn là tôi, chỉ là cách hiển lộ của mình như đã khoác thêm một chiếc áo mới – dày hơn.


Đời mình, bao hàm trong đó là sự nghiệp của mình, dù tách riêng hay nói chung thì thực tế đều ghi dấu những thành công và cả những thất bại. Để vượt qua được những thăng trầm đó, việc mình khiêm nhường lùi lại một bước hay mạnh dạn tiến lên đều là một dạng bản lĩnh. Trong hành trình của mình, tôi cho rằng thành công hay thất bại đều có vai trò riêng. Thực tình, tôi không phân biệt lắm chuyện thành công hay thất bại, vì mỗi điều xảy ra ở đúng thời điểm của nó đều có giá trị riêng.
Trong đời sống của tôi, có nhiều “bước lùi” mà sau này ngẫm lại, đã mở ra cho tôi những cơ hội tiến. Tôi chưa bao giờ đạt giải tranh thiếu nhi, và vì thế khi lớn lên, tranh tôi chẳng phải gánh tiêu chí của người ta. Tôi từng thất vọng khi để trượt Đại học Mỹ thuật Việt Nam, nhưng việc đỗ Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội lại là một cái may khác – tranh của tôi có cá tính thị giác và cách cấu tứ riêng. Tôi từng đắn đo mãi trước quyết định dừng công tác giảng dạy ở trường Đại học, nhưng vì thế tôi có thời gian chuyên tâm vào sáng tác nghệ thuật và tham gia triển lãm đó đây, xây dựng tên tuổi của mình.
Mỗi lần có một “bước lùi” như vậy trong đời sống, tôi lại có điều kiện để nhìn nhận thêm nhiều điều mới. Nhân sinh quan mở rộng hơn – tất nhiên sự bao quát ấy có hay, có dở – nhưng với tôi, tất cả đều ý nghĩa. Tôi không chắc lần biến đổi nào trong đời mình cho đến thời điểm này là ngoạn mục nhất, bởi tôi vẫn đang đi, vẫn đang tiếp tục những lần “lùi lại rồi lại tiến lên” như vậy. Quay trở lại “Chuyện núi” – đây là một dịch chuyển mà tôi hài lòng.

Thực hiện: Minh Đoàn