Nguyễn Trung Hiếu (sn. 1974) tốt nghiệp Khoa Đồ họa tại Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam vào năm 1996. Các triển lãm nhóm tiêu biểu có thể kể đến như “36/59/74” (2017, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam) và “Hình Bóng” (2025, Art Space, Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam).
Năm 2025, Nguyễn Trung Hiếu đánh dấu một cột mốc quan trọng trong sự nghiệp với triển lãm cá nhân đầu tiên mang tên “Sự hiện ra – Sự biến mất – Không gian” tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Cùng với triển lãm, anh cũng ra mắt cuốn sách cùng tên, được NXB Mỹ thuật phát hành, như một tổng kết về quá trình sáng tác và tư duy nghệ thuật của mình trong suốt 5 năm qua. Art Republik đã có thời gian trò chuyện với họa sỹ nhân dịp triển lãm cá nhân của anh.
Về cảm quan vật liệu, thoạt nhìn, các tác phẩm của anh gợi cảm giác gần với sơn mài, nhưng chỉ khi tiến lại gần, người xem mới bất ngờ vỡ lẽ về khả năng mà chất liệu than tự nhiên trên giấy có thể biểu đạt: mạnh và như một cuộc chơi riêng. Anh từng chia sẻ rằng bản thân rất thích sơn dầu, nhưng đâu là cơ duyên đã đưa anh tới với than tự nhiên trên giấy và gắn bó trong suốt chặng đường vừa qua?
Quá trình vẽ, nghiên cứu và làm việc liên tục với chất liệu than trên bề mặt giấy đem đến một cảm giác khá lạ. Lạ bởi lẽ than là chất liệu quen thuộc ngay từ những ngày đầu luyện thi đại học và những năm học Đại học Mỹ thuật. Nhưng khi tiếp cận theo một cách khác, nó đem lại sự tự do trong biểu đạt.
Giai đoạn đầu tiên của loạt tranh “Sự hiện ra – Sự biến mất – Không gian”, sự gắn bó với chất liệu than chưa đến ngay. Nhưng khi làm việc nhiều hơn, và trên các bề mặt giấy khác nhau, tôi thực sự bị lôi cuốn và chìm đắm vào chất liệu này. Thoắt cũng đã hơn 5 năm.
Những kỹ thuật ưa thích của tôi là “mài” và “sờ”. “Mài” là kỹ thuật giống như vẽ sơn mài. “Sờ” là trong cả quá trình vẽ tôi luôn dùng lòng bàn tay và những ngón tay mình cảm nhận khắp bề mặt tranh. Sự “đụng chạm” này là cách kiểm soát mặt giấy đi cùng với một trạng thái tinh thần được thỏa mãn. Có lẽ, chính trạng thái được thỏa mãn về mặt tinh thần này là yếu tố giữ tôi ở lại với chất liệu than lâu đến thế.
Cách anh làm việc trên bề mặt là một hệ thống phức tạp và đa tầng, thiếu sự cầu kỳ ấy, hiệu quả thị giác sẽ hoàn toàn khác. Nếu có thể mô phỏng bằng lời về tiến trình cụ thể để một tác phẩm của anh thành hình, đạt đến độ đủ thỏa mãn để dừng bút, đó sẽ là gì? (ví dụ: từ phác thảo nghiên cứu cơ thể người, đến làm lớp đầu tiên, lớp thứ 2, mài, không mài,…)
Sau thời gian dài nghiên cứu và thực hành. Tôi tự đặt ra một phương pháp gồm khá nhiều bước và phải dành đủ thời gian cho các bước bao gồm cả kiểm soát độ ẩm mặt giấy. Trên mỗi bề mặt giấy khác nhau, các kỹ thuật này cũng sẽ được áp dụng khác nhau. Cho đến lúc ký tên lên một bức tranh, các kỹ thuật áp dụng cũng phải hoàn thành. Giấy – độ ẩm – vẽ – mài – vẽ – độ ẩm là mô tả theo cách rút gọn về mặt kỹ thuật. Tuy nhiên, hiệu quả thị giác cuối cùng vẫn quan trọng hơn cả.
Những ai từng đến xưởng họa đều nhận thấy sự nghiêm cẩn trong nghiên cứu cơ thể người – vốn là hình ảnh chủ đạo trong thực hành của anh. Sự nghiên cứu của một người nghệ sỹ về chủ thể trong tranh chính là cội rễ để tư duy rẽ nhánh và phân tầng sau đó. Anh nghĩ sao về nhận định này?
Nhận định này có khía cạnh đúng. Trong quá trình vẽ một bức tranh hay cả loạt tranh, tư duy phân nhánh liên tục. Giữ được sự tập trung chỉ là một yếu tố. Sự phối ngẫu của các tư duy phân nhánh dẫn đến những những lối rẽ khác. Điều này đem lại sự hưng phấn rất đáng lưu tâm. Đồng thời, nó cũng phức tạp hóa về mặt tư duy và cách tiếp cận về chủ thể mà mình nghiên cứu. Như vậy có nghĩa là có nhiều thứ đủ hấp dẫn để theo đuổi, có nhiều con đường để đi. Nhưng mọi suy nghĩ luôn hướng về chủ thể mà tôi nghiên cứu. Đó là những vòng lặp nhưng không giống nhau, mỗi vòng lặp tư duy bị tác động bởi chính chủ thể nghiên cứu làm cho cách tiếp cận vấn đề biến đổi. Sự phân nhánh về tư duy cũng tác động tích cực đến việc duy trì cảm xúc trong thời gian dài, đặc biệt là khi vẽ những bức tranh khổ lớn và dùng đến nhiều thời gian.
Vẽ – Nghiên cứu – Vẽ. Vòng lặp liên tục trong hơn 5 năm (2020–2025) của anh đa phần xoay quanh những nghiên cứu với bảng màu đen trắng. Hàm ý của anh trong việc chọn sử dụng hai gam màu tương phản này là gì?
Đen và trắng tương tự như ánh sáng và bóng tối, không đơn thuần là hai trạng thái màu sắc câm lặng. Francis Bacon nói: “In order for the light to shine so brightly, the darkness must be present”. Tạm dịch: (Để ánh sáng có thể rực rỡ đến thế, bóng tối ắt phải hiện hữu).Tôi rất thích câu nói này của Francis Bacon. Nó hàm chứa các sắc thái của nghệ thuật và đa tầng về mặt ý nghĩa. Có lẽ, ánh sáng và bóng tối đối với tôi là đủ.
Tác phẩm của anh thường hướng đến trừu tượng hoặc bán trừu tượng, khai thác cơ thể người trong ba chiều: “sự hiện ra” (gắn với ánh sáng), “sự biến mất” (gắn với chuyển động) và “không gian” – anh gọi là một dạng hiện thực huyền ảo. Không gian riêng đó đang kể câu chuyện gì về anh – người nghệ sỹ trong từng chiều kích?
Trên con đường dài của cuộc đời cũng như nghệ thuật, có thời điểm tôi tự đối thoại với bản thân. Tôi đang theo đuổi điều gì? Tôi muốn nhìn thấy những gì xuất hiện trên bề mặt tranh thông qua đôi bàn tay mình? Một hiện thực, một ảo giác hay sự biến đổi liên tục của chủ thể mà tôi nghiên cứu?
Quay về lại với những yếu tố cơ bản hình thành tư duy hội họa của bản thân. Ánh sáng, bóng tối và sự chuyển động. Ba thành tố cơ bản, nhào nặn trong cảm xúc cá nhân để đi đến “Sự hiện ra – Sự biến mất – Không gian” là một hành trình dài và đem lại nhiều cung bậc khác nhau về mặt cảm xúc.
Dạng hiện thực huyền ảo là trạng thái mê hoặc tôi từ rất lâu mà có lẽ tác phẩm “Trăm năm cô đơn” của García Márquez là một cảm hứng xuyên suốt. Có thứ gì đó lấp lửng mơ hồ từ những điều rất thực, khó nắm bắt nhưng hấp dẫn đến mức bồn chồn. Cái không thực lẩn khuất, ẩn mình đâu đó chực chờ phát lộ. Ngay khi tưởng thấy được thì nó lại biến mất vào những hiện thực đơn giản đến bất ngờ. Khi nhiều thực tế trộn lẫn, một không gian hình thành. Một dạng không gian mà cho đến bây giờ tôi vẫn không thể lý giải nổi về sức hấp dẫn tuyệt đối của nó. Có thể câu chuyện mà tôi muốn kể là một mảnh ghép của không gian khác, một không gian chỉ hiện diện trong hình dung mơ hồ mà chính tôi tự tạo ra.
Trong tranh của anh, có thể thấy sự đối thoại giữa nhiều lớp không gian: cơ thể như một không gian tự thân, không gian nơi cơ thể được đặt vào, không gian nội tâm của nghệ sỹ và khi hiện diện trước người xem lại mở ra một chiều không gian khác. Anh nhìn nhận sự đối thoại giữa các tầng không gian này ra sao?
Tôi luôn nhìn mỗi con người như một không gian độc lập. Một không gian mang tính vật chất trộn lẫn không gian của ý thức. Các không gian độc lập này giao thoa liên tục. Trong quá trình đó, rất nhiều không gian khác được tạo ra. Ngay trong chính một cơ thể duy nhất cũng tạo ra nhiều sự chuyển biến về không gian nếu quan sát trong trường ánh sáng khác nhau, trường chuyển động khác nhau.
Theo đuổi và nỗ lực thể hiện thực tế đó trên bề mặt tranh là gần như không thể. Hình bóng hiện diện trong những bức tranh của mình mang nặng cảm xúc cá nhân. Tôi nhìn nhận không gian riêng rẽ bên ngoài bản thân theo cách riêng tôi muốn. Đôi lúc tôi nhuộm đẫm bản thân bằng sự cảm tính thay vì lý trí. Chỉ một chi tiết nhỏ của cơ thể con người cũng đủ cuốn hút, đủ tạo ra một không gian trong trí tưởng tượng.
Ngược lại, người xem lại là một không gian hoàn toàn tách bạch với nghệ sỹ. Điều này, từ góc nhìn của tôi là thực sự thú vị. Tôi thích thú khi được nghe những cảm xúc, suy nghĩ về những bức tranh của mình từ khán giả. Đó là lúc các không gian gần lại nhau, những cảm xúc bổ khuyết hình thành qua trao đổi. Tôi được thấy chính mình ở đó, từng bước tư duy đi qua trong quá trình nghiên cứu và sáng tác.
Nói về các sáng tác của anh được trưng bày trong triển lãm đôi cùng họa sỹ Trần Hoàng Sơn mang tên “Hình và Bóng”, PGS TS Trang Thanh Hiền từng nhận định “Chúng như có nội dung mà lại không có nội dung. Chúng là ánh sáng được gợi ra từ bóng tối. Chúng là những khuôn hình tự hiện như quy luật tự nhiên, rồi lại biến mất trong tích tắc. Chúng là lưng hay eo, sự căng của bầu ngực hay độ gợi của những vết hằn. Và, chúng là những gợi ý đầy xúc cảm trong ở những trạng huống khác nhau của bản thể”. Anh nghĩ sao về cách nhìn này, và anh có đồng cảm thế nào với việc tác phẩm của mình được đọc trong mối giằng co giữa dục vọng – thanh khiết – buông bỏ?
Không dễ để có thể tách bạch hoàn toàn các trạng thái cảm xúc của một con người. Những hình ảnh cơ bản chỉ tồn tại ở dạng phiên bản của thực tế thông qua lăng kính cá nhân. Chính xúc cảm cá nhân quyết định lối rẽ khi sự giằng co mang tên dục vọng – thanh khiết – buông bỏ xuất hiện. Mọi bức tranh đều bắt đầu bằng một dạng ảo ảnh cho đến khi dần trở nên rõ ràng. Ngay cả những khi trước mặt mình là một người mẫu bằng xương thịt, sự trừu tượng luôn hiện hữu song hành. Tôi nhìn họ nhưng không nhìn họ. Tôi nhìn thấy không gian mà họ mang đến, trong không gian của tôi. Các trạng thái tư duy chen lấn lộn xộn và khó kiểm soát. Thêm nữa, sự phối ngẫu của tư duy rẽ nhánh (như đề cập ở trên) liên tục xuất hiện và tác động mạnh khiến cho trạng thái “chập chờn” trở nên rõ rệt như PGS TS Trang Thanh Hiền đề cập là có thể hiểu được.
Tính nhất quán trong phong cách và tư duy rõ ràng giúp anh định hình một giọng điệu riêng. Với anh, sự nhất quán này có phải là nguyên tắc hay là kết quả tự nhiên của quá trình sáng tác?
Tôi cho rằng không thể tự nhiên nghĩ ra một “giọng điệu riêng”, không thể cố gắng để sở hữu nó. Một giọng điệu hay một phong cách riêng phải là kết quả của một quá trình làm việc liên tục và tập trung. Sự nhất quán là yếu tố quan trọng và nằm trong phạm vi ý thức. Tuy nhiên, phải nhắc đến tư duy rẽ nhánh trong quá trình sáng tác. Bởi lẽ, điều này có thể có tác động đến sự nhất quán của sáng tác và nghiên cứu. Việc nghiên cứu sâu một chất liệu trong thời gian dài cũng phần nào tạo ra sự thống nhất về cách tiếp cận của tư duy với chủ thể nghiên cứu.
Vốn là người sống kín tiếng, anh chọn cách lắng lại để lắng nghe những mạch ngầm sáng tạo trong mình. Có phải sự tĩnh lặng ấy chính là cách anh hiểu mình, chuyên tâm sáng tác và tìm được “phách” riêng? Và anh có thấy đâu đó sự thiệt thòi trong lựa chọn này?
Như đã nói. Có rất nhiều con đường để đi, rất nhiều thứ tôi muốn làm. Mọi thứ tôi đang theo đuổi đều cần thời gian. Tôi thích dùng thời gian của mình để lắng nghe bản thân và thể nghiệm những điều mình theo đuổi, đúc rút và làm việc nhiều hơn. Trong quá trình làm việc, chợt nhìn thấy những điều thú vị khác, thấy hấp dẫn khó cưỡng. Việc đi mãi một con đường, không phải là không có những lúc nặng nhọc và nghi hoặc bản thân nhưng mỗi lúc gần chạm đến cái không gian mà mình tìm kiếm, sự hưng phấn làm nhiều thứ trở nên nhẹ nhõm.
Sự thiệt thòi, nếu muốn gọi tên có lẽ cần thêm nhiều thời gian nữa. Còn ở thời điểm hiện tại, tôi vẫn đi trên con đường đó, tìm kiếm một không gian có thể không bao giờ tồn tại. Thực nhưng không thực.
Xin cảm ơn anh, chúc anh sẽ gặt hái được nhiều thành công trên con đường sắp tới!
Thực hiện: Ace Lê, Tâm Phạm