Lược sử thực vật họa Việt Nam

Để hiểu rõ về lược sử của thực vật họa, ta cần xem xét sự phát triển của cả ngành thực vật học và hội họa theo dòng lịch sử nhân loại.

Thực vật họa là lĩnh vực kết hợp giữa khoa học và nghệ thuật, từng đóng vai trò quan trọng trong hội họa và y học Việt Nam. Vào thế kỷ 20, thực vật họa phổ biến trong sách giáo khoa, ấn phẩm khoa học, quảng cáo, v.v. nhưng đã dần suy giảm từ những năm 2000 do sự phổ biến của máy ảnh kỹ thuật số. Những câu hỏi đặt ra bao gồm: Thực vật họa là gì? Quá trình phát triển của nó diễn ra thế nào? Điểm độc đáo trong sự phát triển của thực vật họa tại Việt Nam so với thế giới là gì? Thách thức và cơ hội hiện tại của lĩnh vực này ra sao?

Phan Thị Thanh Nhã, “Tô hạp bách (Calocedrus macrolepis Kurz)” (2023).

Thực vật họa, hay “botanical art” trong tiếng Anh, với “botanical” bắt nguồn từ “botany” – thực vật học. Mỗi tác phẩm thực vật họa là kết quả hợp tác chặt chẽ giữa nhà thực vật học và họa sỹ, nơi cả hai yếu tố khoa học và nghệ thuật cùng bổ sung và tôn vinh lẫn nhau. Do vậy, các tác phẩm thực vật họa vừa có thể xuất hiện ở các triển lãm nghệ thuật, vừa có thể được trưng bày ở các bảo tàng tự nhiên, vườn thực vật và viện nghiên cứu khoa học. Để hiểu rõ về lược sử của thực vật họa, ta cần xem xét sự phát triển của cả ngành thực vật học và hội họa theo dòng lịch sử nhân loại.

Mỗi vùng lãnh thổ có điều kiện khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng và hệ sinh vật đặc thù. Chẳng hạn, trên một số vách hang động ở Pháp, các tác phẩm hội họa của người tiền sử tái hiện cảnh sinh hoạt hàng ngày và mô tả các loài động thực vật điển hình của vùng có khí hậu lạnh. Từ thời kỳ nguyên thủy, khi thu lượm thức ăn từ tự nhiên, tổ tiên loài người cần phân biệt các loài cây có thể ăn được, cây thuốc với cây có độc, đồng thời truyền lại kiến thức này cho các thế hệ sau. Quá trình này đã đặt nền tảng cho sự hình thành của thực vật học, một trong những ngành khoa học lâu đời nhất của nhân loại. Hai tác phẩm thực vật học đầu tiên được ghi nhận là “Bách thảo toàn thư (De Historia Plantarum libri decem)” và “Các cơ chế phát triển của thực vật (De Causis Plantarum)” do Theophrastus – triết gia, nhà thực vật học và nhà khoa học Hy Lạp cổ – biên soạn trong khoảng thời gian từ năm 350 đến 287 trước Công nguyên. Giai đoạn đầu của thực vật học có sự gắn bó mật thiết với y học. Các tranh minh họa thực vật phương Tây đầu tiên cũng chủ yếu về dược liệu. Bộ y thư cổ nhất được ghi nhận là “Dược liệu học (De Materia Medica)” của bác sỹ, dược sỹ Hy Lạp cổ đại Pedanius Dioscorides vào thế kỷ 1 Công nguyên. Bộ sách liệt kê khoảng 600 loài thực vật, cùng nhiều khoáng chất và động vật có giá trị dược liệu. Khi tác phẩm “De Materia Medica” được sao chép và dịch ra nhiều ngôn ngữ, các bản sao này thường được bổ sung thêm những minh họa chi tiết của các loại dược liệu.

Bản tái bản năm 1644 của cuốn “Bách thảo toàn thư (De Historia Plantarum libri decem)” do Theophrastus viết.

Vào đầu thế kỷ 15, các họa sỹ bắt đầu đồng hành cùng các nhà khoa học trong những chuyến khảo sát vùng đất mới. Họ thường làm việc theo cặp, với nhà khoa học nghiên cứu và mô tả mẫu vật bằng văn bản, trong khi họa sỹ quan sát và ghi lại hình ảnh mẫu vật trên bản vẽ. Sự ra đời của hai tác phẩm kinh điển “Các loài thực vật (Species Plantarum)” (1753) của Carl Linnaeus, cha đẻ của phân loại học hiện đại, và “Nguồn gốc các loài” (1859) của Charles Darwin, đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong khoa học tự nhiên, đặc biệt là thực vật học. Sự phát triển rực rỡ của thực vật học đã đưa minh họa khoa học và thực vật họa bước vào thời kỳ hoàng kim.

Cuốn “Các loài thực vật (Species Plantarum)” của Carl Linnaeus xuất bản năm 1753.

Ở phương Đông, nhiều bộ dược điển Trung Hoa cổ ghi chép về các dược liệu từ phương Nam, bao gồm hoắc hương, gừng gió, cau, trầu không, quả lười ươi, dưa gang, v.v.. Bên cạnh đó, các bài thuốc dân gian và phương pháp chế biến dược liệu của người Việt cũng được ghi vào các dược điển này. Chẳng hạn, trong sách “Bản thảo cương mục (本草纲目)” vào thời nhà Minh (xuất bản năm 1596), Li Shizhen (Lý Thời Trân) khen ngợi cách chế biến cao ban long và hoài sơn của nước ta. Điều này cho thấy dược liệu có nguồn gốc phương Nam và các bài thuốc Nam đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của y học phương Đông. Trong cuốn “Đồ họa cổ Việt Nam” (2011), nhóm tác giả Phan Cẩm Thượng, Lê Quốc Việt, Cung Khắc Lược chỉ ra rằng: “Thơ phú chủ yếu được truyền miệng. Sách khoa học gần như không có. Sách thuốc và địa lý chủ yếu là bí truyền và không được phổ cập… Trong giai đoạn Bắc thuộc từ năm 111 trước Công nguyên đến thế kỷ X, không có di vật ấn loát nào được tìm thấy…”. Qua các bản khắc gỗ còn lưu giữ ở các chùa vùng Dâu – Keo, Thuận Thành, Bắc Ninh, thực vật thường chỉ đóng vai trò trang trí trong tranh.

Trong thời kỳ phong kiến từ nhà Lý đến Nguyễn (năm 939–1945), việc nghiên cứu và mô tả thực vật chủ yếu tập trung vào dược liệu. Các bộ y thư của Tuệ Tĩnh (thế kỷ 14), Phan Phu Tiên (thế kỷ 15) và Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1724–1791) đều dựa vào các vị thuốc Nam, xây dựng nền móng cho nền y dược cổ truyền Việt Nam. Trong tác phẩm “Nam dược thần hiệu”, Tuệ Tĩnh (thế kỷ 14) mô tả các bài thuốc và phương pháp dùng thực vật để chữa trị các chứng bệnh thường gặp trong đời sống hằng ngày của người Việt cổ như gừng, riềng, búng báng để làm thuốc phòng và chữa bệnh. Người Việt cổ còn uống nước lá vối để hỗ trợ tiêu hóa và giảm đường huyết, nhai trầu với cau và vôi để chắc răng, thơm miệng. Điều này cho thấy những nghiên cứu đầu tiên về thực vật học ở Việt Nam cũng bắt đầu từ dược liệu, tương tự như sự phát triển của thực vật học trên thế giới. Thực vật trong các bộ y thư này chủ yếu mô tả bằng chữ viết. Trong hai dòng tranh dân gian truyền thống của Việt Nam là Đông Hồ và Hàng Trống, thực vật được thể hiện sinh động trong tranh. Hình ảnh cây sen, cây hoa mai, ngô đồng, cây tùng, cây dừa, v.v. không chỉ làm tăng vẻ đẹp của tranh mà còn mang ý nghĩa văn hóa và tâm linh sâu sắc, biểu trưng cho các mùa trong năm và phong tục của người Việt trong đời sống hằng ngày và vào các dịp lễ tết.

Bộ tranh Tứ Bình, thuộc chủ đề tranh chúc tụng của tranh dân gian Đông Hồ. Trích từ sách “Nghề tranh dân gian Đông Hồ: Di sản văn hóa Việt Nam” (2014) của Vũ An Chương và Nguyễn Đăng Chế.

Sau khi trở thành thuộc địa của Pháp vào năm 1858, hệ thực vật của bán đảo Đông Dương, trong đó có Việt Nam, đã được các nhà tự nhiên học Pháp và phương Tây nghiên cứu và công bố rộng rãi. Đáng chú ý là các tác phẩm “Tổng quát thực vật Đông dương (Flore générale de l’Indo-Chine)” của Lecomte, M. H., Humbert, H. & Gagnepain, F. phát hành 7 quyển từ năm 1907 đến năm 1951; “Thực vật rừng của Nam kỳ (Flore forestière de la Cochinchine)” của Pierre, L. gồm 4 quyển phát hành từ năm 1880 đến năm 1907; loạt ấn phẩm “Thực vật chí Campuchia, Lào và Việt Nam (Flore du Cambodge, du Laos et du Viêt-nam)” được xuất bản bởi Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia ở Paris từ những năm 1960 gồm 35 tập. Trong đó, “Flore générale de l’Indo-Chine” nổi bật nhất, với nội dung mô tả chi tiết hàng nghìn loài thực vật, phân bố và môi trường sống của chúng. Tác phẩm không chỉ cung cấp thông tin quý giá về quá trình khám phá thực vật ở Đông Dương trong thời kỳ Pháp thuộc mà còn được xem là tài liệu lịch sử quan trọng. Các bản vẽ minh họa trong tác phẩm này được các nhà minh họa đánh giá cao vì sự chính xác về thực vật học, bố cục rõ ràng và bút pháp đỉnh cao.

Trong thời kỳ Pháp thuộc (1858–1945), Việt Nam trải qua nhiều thay đổi sâu rộng trong các lĩnh vực chính trị, văn hóa, giáo dục, khoa học và hội họa. Đặc biệt, sự thành lập Trường Mỹ thuật Đông Dương vào năm 1924 đã đánh dấu sự khởi đầu của mỹ thuật hiện đại Việt Nam. Trường Mỹ thuật Đông Dương không chỉ giới thiệu các kỹ thuật và phong cách nghệ thuật phương Tây mà còn giúp các nghệ sỹ Việt Nam tiếp cận nghệ thuật hiện đại. Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, nhiều trí thức trẻ Việt Nam đã sang phương Tây để học tập và mang tri thức về phục vụ quê hương, trong đó tiêu biểu có cố Giáo sư Phạm Hoàng Hộ.

Giáo sư Phạm Hoàng Hộ trở về nước và được bổ nhiệm làm giám đốc Hải học viện Nha Trang, tiền thân của Viện Hải dương học Nha Trang hiện nay. Ngoài công việc giảng dạy, ông còn thực hiện nhiều chuyến khảo sát để nghiên cứu và thu thập mẫu vật. Năm 1960, công trình nghiên cứu hệ thực vật Việt Nam đầu tiên do người Việt thực hiện, “Cây cỏ miền Nam Việt Nam” của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ được xuất bản. Trong tất cả các tác phẩm của mình, ông luôn tự tay minh họa cho các loài thực vật, tảo biển, tế bào, v.v. góp phần quan trọng vào việc hòa nhập và phát triển của thực vật học và thực vật họa Việt Nam theo xu hướng toàn cầu. Với mục tiêu phổ biến kiến thức sinh học và thực vật học, ông sử dụng bút kim để minh họa trên giấy, kết hợp với cách viết ngắn gọn, súc tích nhằm tối ưu hóa số trang.

Sau nhiều lần bổ sung và điều chỉnh, đến năm 1999, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ hoàn thành bộ ba quyển sách “Cây cỏ Việt Nam”. Đây là công trình đầu tiên chuyên về hệ thực vật Việt Nam do một nhà khoa học Việt thực hiện. Bộ sách cung cấp thông tin chi tiết về mỗi loài thực vật, bao gồm tên khoa học, tên đồng danh thông dụng, và tên thông thường trong nhiều ngôn ngữ, cùng với mô tả ngắn gọn nhưng đầy đủ các đặc điểm phân biệt từng loài. Các loài được phân chia theo hệ thống phân loại (ngành, lớp, bộ, họ, chi, loài, loài phụ, thứ, v.v.) kèm theo các hình minh họa chi tiết do chính ông thực hiện, thể hiện hình dáng tổng thể và các đặc điểm nhận diện quan trọng.

Mô tả và hình minh họa của cây tô hạp bách và pơmu trong tác phẩm “Cây cỏ Việt Nam” của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ.

Vào cuối thế kỷ 20, sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của máy ảnh kỹ thuật số đã tạo ra những bức ảnh sắc nét chỉ trong thời gian ngắn, đặt ra thách thức mới cho thực vật họa và minh họa khoa học cho thực vật. Trước đây, khi công bố loài thực vật mới, các tạp chí khoa học uy tín yêu cầu kèm theo một bản vẽ minh họa khoa học đen trắng. Tuy nhiên, nhằm rút ngắn thời gian và giảm chi phí, ảnh chụp dần được ưa chuộng và chấp nhận rộng rãi hơn. Mặc dù vậy, minh họa khoa học cho thực vật và thực vật họa vẫn giữ vững những ưu điểm và vị thế đặc thù mà ảnh chụp không thể thay thế. Một trong những điểm mạnh nổi bật là bản vẽ của họa sỹ không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố ngoại cảnh như ánh sáng hay điều kiện môi trường, điều thường làm giảm chất lượng ảnh chụp. Hơn nữa, mẫu thực vật thường dễ bị hư hại trong quá trình thu thập và lưu trữ, như rụng cánh hoa, sâu ăn lá, mẫu bị dập nát, v.v. Trong những trường hợp này, họa sỹ thực vật họa có khả năng tái tạo mẫu vật về trạng thái hoàn chỉnh và tốt nhất trên bản vẽ, điều mà máy ảnh không thể thực hiện được.

Phan Thị Thanh Nhã, “Sơn địch (Aristolochia decandra Ding Hou)” (2023), trưng bày ở triển lãm Giải thưởng Margaret Flockton năm 2024, Vườn thực vật Sydney, Úc.

Đối diện với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ và trí tuệ nhân tạo (AI), thực vật họa và minh họa khoa học đang đối mặt với những thử thách chưa từng có. Với sự hỗ trợ của các vườn thực vật và các viện nghiên cứu, Hiệp hội Họa sỹ Thực vật họa Thế giới cùng các hiệp hội thực vật họa ở nhiều quốc gia đã được thành lập. Các triển lãm thực vật họa, khóa đào tạo cho họa sỹ và minh họa sư, cũng như việc phát hành ấn phẩm triển lãm đã được triển khai trên toàn cầu, nhằm thúc đẩy và lan tỏa vẻ đẹp của loại hình khoa học kết hợp hội họa đặc biệt này. Ở Đông Nam Á, trong những năm gần đây, Hiệp hội Thực vật họa của Indonesia (IDSBA), Philippines (PhilBAS), Singapore (BASS) và Thái Lan (THBA) đã được thành lập. Ngày 15 tháng 11 năm 2022, triển lãm “Hệ thực vật Đông Nam Á”, do bốn hiệp hội trên đồng tổ chức, đã khai mạc tại Singapore. Triển lãm quy tụ hơn 120 tác phẩm thực vật họa của 85 họa sỹ đến từ Singapore, Thái Lan, Indonesia, Philippines, Malaysia, Việt Nam, Ấn Độ, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đan Mạch, UAE và Canada, diễn ra tại phòng trưng bày Botanical Art  nằm trong tòa nhà Inverturret (Gallop Extension), cùng một số địa điểm khác thuộc Vườn thực vật Singapore. Triển lãm “Hệ thực vật Đông Nam Á” không chỉ là một sự kiện quan trọng đánh dấu sự hợp tác chặt chẽ giữa các hiệp hội thực vật họa trong khu vực, mà còn thể hiện nỗ lực giới thiệu và phát triển thực vật họa đến với đông đảo công chúng.

Trong thời gian tới, cộng đồng yêu thích và nghiên cứu thực vật học tại Việt Nam đang hy vọng về việc thành lập một hiệp hội thực vật họa riêng của quốc gia. Sự ra đời của một hiệp hội chuyên biệt sẽ không chỉ thúc đẩy nghiên cứu và bảo tồn thực vật họa mà còn tạo ra một nền tảng vững chắc cho việc giao lưu, chia sẻ kiến thức, cơ hội hợp tác giữa các nhà thực vật học và họa sỹ trong nước và thế giới.

Thực hiện: Phan Thị Thanh Nhã

(Bài viết “Lược sử thực vật hoạ” lần đầu được đăng tải trong ấn phẩm Art Republik #7 “Tầm nhìn từ trung điểm”.)